Năm 623 trước công nguyên, tại thành Ca Tỳ La Vệ có một vị Thái Tử dám từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, để xuất gia tìm đạo giải thoát, cứu khổ muôn loài. Đó chính là Đấng Từ Phụ Phật Thích Ca Mâu Ni.
Là những người con Phật không ai lại có thể quên được ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch là ngày xuất gia của Đấng Giác ngộ. Thế là cứ vào ngày này hằng năm, Phật tử ở khắp mọi nơi trên thế giới lại thành tâm làm lễ kỷ niệm ngày xuất gia của Đức Từ Phụ.
Ngày lễ kỷ niệm Phật xuất gia có ý nghĩa gì? Chúng ta học được những gì qua gương hạnh xuất gia của Ngài? Đó là nội dung của bài viết này.
Lịch sử Phật xuất gia
Ngược dòng lịch sử, vào năm 623 trước công nguyên, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbinī) gần thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), hiện nay là vùng biên giới giữa Nepan và Ấn Độ. Đức Phật Thích Ca đã giáng sinh có tên là Tất Đạt Đa (Siddhārtha Gautama), là một vị Thái tử con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng hậu Ma Da (Māyādevī) đang trị vì một vương quốc nhỏ của bộ tộc Thích Ca (Sākya).
Ngay lúc sinh ra, Thái Tử đã có đầy đủ hảo tướng. Các nhà tiên tri cho rằng Thái Tử sẽ trở thành hoặc một đại đế hay một Bậc giác ngộ. Vua cha Tịnh Phạn không muốn con đi tu nên dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, nhất là không để cho tiếp xúc với cảnh khổ, bao bọc Thái Tử trong cung vàng điện ngọc, cho kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yásodharā).
Năm lên mười, nhân ngày lễ Tịch Điền, Thái tử theo vua cha Tịnh Phạn ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp mắt, nhưng tâm hồn Thái tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán nông nổi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy người nông phu và trâu bò phải làm việc cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng đang giãy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang rình bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây nào ngừng! Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng rằng sự sống là khổ.
Một lần khác, Ngài xin phép vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Ðông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã. Ðến cửa Nam, Ngài thấy một người ốm nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng. Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái xác chết nằm giữa đường, ruồi nhặng bu bám, trương phình lên, trông rất ghê tởm. Ba cảnh khổ già, bệnh, chết, cộng thêm cảnh tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái tử đã chứng kiến hôm lễ Tịch Điền, khiến Ngài đau buồn, thương xót chúng sinh vô cùng.
Một lần khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử trong lòng nẩy sinh một niềm cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp: “Tôi tu hành là quyết dứt bỏ mọi sự ràng buộc của cuộc đời, cầu thoát khổ, viên thành chính giác để phổ độ chúng sinh đều được giải thoát.” Lời đáp đúng với hoài bão mà Thái tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không đồng ý. Thái tử bèn yêu cầu vua cha 4 điều, nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn điều đó là:
1. Làm sao cho con trẻ mãi không già
2. Làm sao cho con khoẻ mãi không bệnh
3. Làm sao cho con sống mãi không chết
4. Làm sao cho mọi người hết khổ
Vua cha vô cùng bối rối, không giải quyết được điều nào cả và khi biết được ý định xuất gia của Thái tử, Vua Tịnh Phạn lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng buộc Ngài trong “cung vui”. Nhưng một khi Thái tử đã quyết thì không có sức mạnh gì ngăn trở được Ngài. Thái tử nuôi dưỡng quyết tâm từ bỏ gia đình, xuất gia cầu đạo.
Với Thái tử, lâu đài, cung điện không còn là nơi ở thích hợp nữa. Lòng Ngài nặng trĩu tình thương chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ. Thái tử càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, đi tìm con đường cứu khổ cho muôn loài. Thế rồi vào một đêm Thái tử ra lệnh cho người hầu là Xa-nặc (Chandaka) dắt con ngựa Kiền-trắc ra khỏi tàu ngựa. Trước khi đi, Thái tử đến trước phòng Thái phi và người con trai đang ngủ thiếp. Thái tử hé cửa nhìn vào, Thái tử rất yêu thương vợ con, nhưng đối với nhân loại đang đau khổ bất hạnh, lòng thương xót của Thái tử lại còn da diết hơn. Ngài càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, đi tìm con đường cứu khổ cho muôn loài. Sau đó, Thái tử một mình lên ngựa ra đi, vượt khỏi hoàng thành, theo sau chỉ có người hầu Xa- nặc
Ra đi, Thái tử từ bỏ tất cả, phụ vương, ngai vàng, vợ con, cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc của một vị vương giả. Không phải là sự hy sinh từ bỏ của một người già đau ốm, một người nghèo, bệnh tật, ngán ngẫm cuộc đời, mà là sự hy sinh từ bỏ của một vị hoàng tử đang tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý giàu sang. Quả thật đó là một sự từ bỏ, sự hy sinh vĩ đại, có một không hai trong lịch sử loài người. Năm ấy, Thái tử tròn 19 tuổi (theo sử liệu Bắc truyền). Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng 8 tháng 2 Âm lịch.
Khi tới bờ sông Anoma, Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu, cắt tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Xa-nặc và lệnh cho Xa-nặc trở về. Thái tử một mình ra đi, với bộ áo màu vàng đơn giản của người Tu sĩ, từ nay bắt đầu cuộc sống không nhà của người xuất gia cầu đạo. Ngài không nơi ở cố định. Khi thì ngồi dưới bóng cây, khi thì nằm nghỉ qua đêm trong một hang đá. Chân không, đầu trần, Ngài bình thản bước đi giữa nắng nóng cũng như trong sương đêm lạnh giá. Tất cả mọi năng lực và ý chí của Ngài đều hướng tới lý tưởng cao cả tìm ra chân lý tối hậu, lý lẽ của sống và chết, ý nghĩa của nhân sinh, của cuộc đời, con đường dẫn tới giải thoát và cõi Niết bàn bất tử. Sau khi rời bỏ cuộc đời vương giả, Thái Tử đi vào vùng rừng sâu tìm Ðạo. Cuối cùng Ngài chứng được Tam Minh, vượt thoát sanh tử và hoằng pháp độ sanh.
Ngày lễ kỷ niệm Phật xuất gia là ngày kỷ niệm sự hy sinh cao cả nhất, vĩ đại nhất, có một không hai trong lịch sử loài người.
Thật vậy, là một Thái tử đã yên bề gia thất với vợ đẹp con ngoan, sẽ kế tục vua cha để trị vì thiên hạ, một cuộc sống mà người đời có nằm mơ cũng không thấy được, quá đầy đủ, quá tuyệt vời, nhưng Thái Tử vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc mắc. Ngài thấy cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân thật, mà là mê muội. Vì tình thương bao la vô bờ bến đối với nhân loại đang đau khổ bất hạnh, Ngài quyết định ra đi để tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn. Ngài đã ra đi với thân thế của một vị thái tử sắp nối ngôi vua, ở tuổi đời thơ mộng nhất, ngọt ngào nhất với vợ đẹp con xinh… Đó chính là hy sinh cao cả mà mọi người trên thế gian này không ai có thể làm được.
Dù cách nay đã gần 26 thế kỷ, mà ý nghĩa ngày Phật xuất gia vẫn còn in đậm trong tâm tư của tất cả những người con Phật. Một lần ra đi, Ngài đã thành công rực rỡ, vang động bốn phương, mang lại vô vàn lợi lạc cho muôn loài chúng sanh, âm hưởng vẫn còn vang đến ngày nay và mãi mãi vô tận về sau. Là người con Phật kể cả tại gia và xuất gia, lẽ nào chúng ta lại không học theo hạnh nguyện của Đấng Từ Phụ. Nếu cho rằng Ngài đã nhiều kiếp tu hành, không phải chỉ một kiếp như trong sử đã ghi chép, còn chúng ta chỉ mới có một kiếp tu hành thôi, thì chúng ta cũng phải cố gắng tu tập để có một vài nét gì đó giống như Phật chứ, như câu nói của người thế gian là “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Do đó kỷ niệm ngày Phật xuất gia nhằm nhắc nhở hàng Phật tử tại gia cũng như xuất gia noi theo gương sáng của Ngài để tu hành, để tinh tấn, để tăng trưởng trí tuệ và để giải thoát.
1. Đối với người tại gia, cử hành lễ kỷ niệm ngày Phật xuất gia là nhắc lại, tán thán công đức cũng như hạnh nguyện tu hành của Phật. Điều này giúp người tại gia tăng trưởng niềm tin, gia tăng sự tinh tấn cũng như trưởng dưỡng những yếu tố nuôi dưỡng tâm linh của mỗi một người con Phật, nhằm đem lại sự an lạc cho gia đình và người xung quanh. Tiến hơn một bước nữa, người tại gia nuôi dưỡng ý chí xuất trần để khi đủ điều kiện họ cũng từ bỏ con đường thế tục và đứng trong hàng ngũ của Tăng đoàn, có thể ngay trong kiếp sống này cũng có thể trong kiếp sống vị lai.
Nhìn lại gương của một vị Hoàng Thái Tử dám từ bỏ cung vàng điện ngọc đi vào rừng sâu núi thẩm, người cư sĩ tại gia sẽ học được bài học rằng những dục lạc, những hạnh phúc của thế gian chỉ là tạm bợ, không phải là chân hạnh phúc. Tuy người tại gia chưa hoàn toàn từ bỏ được chúng, nhưng không nên tham đắm hay dính mắc vào ngũ dục quá nhiều, chỉ nên xem những thứ ấy như là phương tiện để sinh sống mà thôi.
Nhìn lại gương của vị Thái tử khi nhìn thấy cảnh sinh lão bệnh tử ở các cửa thành thì hiểu ngay rằng thân ngũ uẩn này là giả tạo và khởi tâm từ bi đến muôn loài, người tại gia tuy chưa thấu triệt hết “ngũ uẩn giai không” nhưng phải giác ngộ rằng chúng mong manh như sương buổi sáng, đừng vì thân ngũ uẩn này mà làm tổn hại đến các sinh vật khác như sát sanh, trộm cắp, nói dối… để nuôi dưỡng hay làm lợi cho thân mạng chính mình mà quên đi những đau khổ của chúng sanh khác. Nói chung là nhắc nhở người tại gia phải giữ giới và tạo nhiều điều thiện.
Nhìn lại gương của vị Thái tử trong lịch sử khi phát tâm tu hành thì chứng quả Phật, người Phật tử tại gia cũng nên tự haò rằng mình có hạt giống Phật, nếu quyết chí tu hành rồi cũng thành Phật và nên tôn trọng, cung kính lẫn nhau bởi lẽ ai cũng là Phật tương lai.
Thật ra, các cư sĩ tại gia, nếu chí thành học Phật cũng có nhiều thành tựu lớn lao. Họ là những người mà “thân không xuất gia, nhưng tâm xuất gia”. Thân của họ tuy chưa đủ duyên để vào ở chùa, nhưng tâm của họ không còn ham thích các thú vui của năm dục và cũng không màng danh lợi. Ngay thời Phật còn tại thế, có rất nhiều cư sĩ tại gia đã dự vào dòng thánh quả từ quả Dự lưu đến quả Bất Lai. Trong Kinh Tương Ưng Bộ, Phật đã xác chứng người tại gia cũng có thể chứng được quả Bất lai (Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ, Tập 5 Ch. 11 Đoạn IV. Sàriputta, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam xuất bản 1993).
Do vậy, lễ Phật xuất gia mang ý nghĩa là giúp người tại gia tin sâu vào Tam Bảo, từng bước tu tập theo gương của Phật, tu tập đến đâu thì an lạc đến đó chẳng những lợi lạc ngay trong đời này và cả trong các kiếp sống vị lai.
2. Đối với người xuất gia thì ý nghĩa của ngày Phật xuất gia không thể nghĩ bàn, bởi lẽ xuất gia là sự quyết định cho một lối rẽ của cuộc đời, tiến bước đi lên trên con đường giải thoát.
Xuất gia tiếng Phạn là Pravrajya là chỉ cho những người tu theo Phật, xa rời đời sống gia đình, chuyên tu hạnh thanh tịnh của Sa môn không màng danh lợi hay dục lạc, chỉ mong cầu giải thoát. Nếu xét về ý nghĩa thì Xuất gia còn có nghĩa là xuất thế tục gia, xuất phiến não gia và xuất tam giới gia. Nếu xét về hình thức thì có các dạng như sau:
(1) Thân xuất gia, tâm xuất gia (người Tu sĩ cần phải giữ hình thức này)
(2) Thân xuất gia, tâm không xuất gia
(3) Thân không xuất gia, tâm xuất gia
(4) Thân không xuất gia, tâm không xuất gia
Ý nghĩa của ngày lễ Phật xuất gia giúp cho người Tu sĩ nhìn lại gương hạnh của Đức Từ Phụ mà rèn luyện thân tâm mình sao cho “con nhà tông không giống lông cũng phải giống cánh”, đừng quá chạy theo phương tiện mà bỏ quên “đạo Phật gốc”. Nếu tu giống Phật thì chắc chắn sẽ thành Phật, cũng như những đứa trẻ muốn lớn lên trở thành Thầy giáo thì ngay từ lúc nhỏ chúng phải bắt chước những cử chỉ, nhửng hành động của người Thầy.
Trở lại tìm hiểu quá trình xuất gia của Đức Phật, chúng ta thấy rằng Thái tử đã từ bỏ vương triều hoàng cung của mình bên vợ đẹp con yêu, để sống đời khổ hạnh nơi rừng sâu, ngày người tu sĩ chúng ta chỉ là những người bình thường có gì để mà tiếc chứ. Những cái quý giá nhất mà Thái tử bỏ được, nếu người tu sĩ mà không học theo hạnh này thì làm sao xứng với danh hiệu là đệ tử Phật. Tất cả những hiện hữu trên cuộc đời dưới dạng giả hợp, như chiêm bao, như bọt nước mà thôi. Người thế gian vì mê lầm nên bị những thứ giả tạm đó làm cho điên đảo, mất bản tâm. Trái lại, người xuất gia nhận thức rằng mọi thứ vật chất, tinh thần đều nằm trong quy luật duyên sinh. Vì thế, bước đi đầu tiên của ngưới xuất là phải ra khỏi nhà thế tục, không chạy theo cuộc đời đầy hư huyễn nữa.
Những gì người thế tục nói, làm, ưa thích, người xuất gia không nói không làm, không ưa thích. Người thế tục ưa thích ngũ dục (tài sắc danh thực thụy) nên bị ngũ dục làm cho điên đảo, người xuất gia phải tránh xa ngũ dục. Nếu cần phải tiếp xúc với chúng để phương tiện hoằng pháp thì phải quán sát ngũ dục như rắn độc. Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà trong giới luật của người xuất gia có các giới như không cất giữ tiền bạc (tránh xa tài), không nằm giường cao tốt đẹp (tránh xa tham đắm vào thụy), khi ăn phải quán sát thức ăn như vị thuốc (tránh xa thực)…
Sau khi vượt bỏ ngôi nhà thế tục gia, người xuất gia quyết chí tu hành, không bận tâm đến những thị phi, danh lợi, hơn thua làm gì. Vì không để tâm đến những thứ ấy nên không sinh phiền não. Đối với người xuất gia, nhà phiền não là chướng ngại thứ hai nên cần phải vượt qua. Người tu theo Phật cần lưu ý điều chỉnh nội tâm hơn là hướng về ngoại cảnh. Khi Phiền não tận diệt thì hoàn cảnh tự khắc sẽ tốt đẹp theo. Nếu không đoạn trừ phiền não trong tâm, nhưng lại siêng năng làm nhiều việc, thì càng làm, phiền não càng nổi lên. Như vậy làm sao xuất được phiền não gia?
Khi người Tu sĩ nhận thức được phiền não đồng nghĩa với vô minh. Nó tiêu hủy đức hạnh và trí tuệ, lúc đó người Tu sĩ sẽ tiến đến bước thứ ba là xuất tam giới gia, tức là vượt ra khỏi ba cõi là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
Quá trình tu chứng của Phật trãi qua 49 ngày thiền định dưới cội bồ đề chứng được Tam minh, vượt thoát tam giới. Như vậy người tu học theo Phật cũng phải vượt thoát ba cõi bằng trí tuệ phát sinh từ con đường Giới Định Tuệ. Người Tu sĩ cần phải giữ giới luật cho nghiêm, đừng để bị lem ố cho dù một vết nhỏ. Thêm vào công phu tu tập tinh tấn thì chắc chắn Định phát sinh. Giới Định Tuệ chính là thước đo giá trị của việc tu học và cũng chính là đích đến của người xuất gia. Phải luôn luôn tự kiểm tra xem Giới của mình có nghiêm không. Nếu chiếc phao giới luật bị thủng thì làm sao vượt biển sanh tử. Kiểm tra xem Định của mình đủ mạnh chưa. Bát phong có suy bất động không hay chỉ một ngọn gió “khen” là đưa tâm mình lên tận mây xanh và chỉ một ngọn gió “chê” thì tâm mình rớt xuống tận cùng của mặt đất. Kiểm tra xem vầng trăng Tuệ của mình đủ sáng soi chưa, co đủ sức vượt thoát ba cõi chưa hay vẫn còn bị mây của tam độc làm cho lu mờ. Khi có Giới có Định có Tuệ thì lo gì không xuất được Tam giới gia.
Do vậy, người Tu sĩ phải nhận thức được ý nghĩa của xuất gia và mong cầu thoát khỏi Tam giới mới báo được ân đức sâu dày của Phật. Đó cũng là những ý nghĩa quan trọng của ngày kỷ niệm Phật xuất gia.
Tóm lại, nói về một ngày lễ kỷ niệm xuất gia của Đức Phật dù cho dưới muôn vạn hình thức, cũng không ngoài sự tán thán công đức cao vời của Đấng Từ Phụ. Thông qua những phương diện tán thán nhằm khuyến khích những người con Phật dù là xuất gia hay tại gia đều phải tinh tấn tu tập đễ có được niềm chân an lạc, cuối cùng là đạt được sự giải thoát có thể ngay trong đời này cũng có thể trong kiếp sống vị lai. Một niềm tin vĩ đại mà Đức Phật đã cho tất cả chúng sanh là: “Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật”. Đức Phật đã khai thị cho loài người biết rằng: “Bất cứ một người nào, với sự nỗ lực của bản thân, đều có thể vươn lên tới đỉnh cao nhất của giác ngộ và giải thoát, như chính Đức Phật vậy”.
Nguồn: Thiền viện Toàn Giác
Để giúp khách hàng có những trải nghiệm tốt nhất về Công viên Nghĩa trang Thiên Đường, thứ 7 & chủ nhật hàng tuần, Thiên Đường tổ chức đưa đón tham quan MIỄN PHÍ, tất cả chi phí di chuyển đều do Thiên Đường hân hạnh đài thọ. Quý khách quan tâm và đăng ký tham quan vui lòng liên hệ Hotline 0934.524.445 hoặc truy cập trang web https://nghiatrangthienduong.com.vn/